Nghiên cứu đánh giá một số giống dâu có triển vọng để làm nguyên liệu lai tạo
Ngành Dâu tằm tơ có đặc thù riêng là sản phẩm cuối cùng trải qua nhiều công đoạn của quá trình sản xuất như trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ và dệt may. Để nâng cao hiệu quả kinh tế của sản xuất cần phải ứng dụng đồng bộ các tiến bộ kỹ thuật mới trong các công đoạn riêng lẻ. Sản xuất lá dâu chiếm 60% tổng chi phí giá thành để sản xuất ra kén tằm. Để nâng cao năng suất và chất lượng lá dâu, ngoài các biện pháp kỹ thuật như chăm sóc, đốn hái và phòng rừ sâu bệnh, công tác chọn tạo giống mới có vị trí rất quan trọng. Trong những năm 30 của thế kỷ trước một số nhà khoa học của Liên Xô đã chuyển hướng sang nghiên cứu chọn tạo giống dâu lai F1 trồng hạt. Nhưng đến năm 80 của thế kỷ 20 dựa trên kết quả thu được, các nhà khoa học của Viện nghiên cứu dâu tằm Quảng Đông đã tiến hành sản xuất hạt dâu lai F1 để cung cấp cho sản xuất. Ở Việt Nam từ năm 1993 mới bắt đầu nghiên cứu theo hướng này và đến năm 2000 đã đưa vào sản xuất trồng giống dâu lai F1 tam bội thể VH9, tiếp đó là giống VH13. Từ những năm 1960-1970 Viện nghiên cứu dâu tằm Quảng Đông đã thu thập, chỉnh lý và chọn lọc được hơn 40 giống dâu để phục vụ cho nguyên liệu lai tạo giống như Luân 40, Luân 109, Đường 10 và Sha2 v.v. Trong đó có giống Sha2 và Luân 109 đang được sử dụng để sản xuất hạt dâu lai chủ yếu hiện nay ở Trung Quốc. Kết quả nghiên cứu cho thấy – Các giống dâu nhập nội Q1, Q2, K9, K10 và K11 có thời gian nảy mầm ở vụ xuân không chênh lệch nhiều so với giống dâu địa phương Hà Bắc, có thể chọn lọc làm nguyên liệu lai tạo giống dâu lai F1 trồng hạt. – Các giống dâu Q2, K9, K10 và K11 đều có kích thước lá lớn hơn giống dâu Hà Bắc, trong đó giống K10 và K11 có kích thước lá lớn nhất. – Các giống dâu thí nghiệm đều có đốt dài hơn nên khối lượng lá trên mét cành nhỏ hơn giống dâu Hà Bắc từ 4- 33 %. – Năng suất của các giống dâu thí nghiệm đều cao hơn giống Hà Bắc, trong đó giống Q1 và K11 đạt cao nhất (118 và 117 %). – Mức độ nhiễm bệnh bạc thau và gỉ sắt của các giống dâu thí nghiệm ở mức độ trung bình tương ứng với giống dâu Hà Bắc. Xem báo cáo chi tiết tại đây |
|
Phạm Văn Dương, Lê Quang Tú, Tống Thị Sen |