Các phương pháp bảo tồn đa dạng di truyền
Nguồn tài nguyên di truyền thực vật phải được bảo tồn sao cho những mất mát là nhỏ nhất và đảm bảo cho nó luôn luôn tồn tại và sẵn có về lâu dài. Trong những thập kỷ gần đây các nhà khoa học nông nghiệp đã đưa ra nhiều giải pháp để ngăn chặn mất mát di truyền bằng việc phát triển một mạng lưới rộng khắp các ngân hàng gen, vườn thực vật, vườn bảo tồn Quốc gia… Các phương pháp nhằm bảo vệ đa dạng di truyền cũng phải tiến hành một cách tổng hợp bằng nhiều phương pháp hỗ trợ cho nhau: Insitu, Exsitu, Invitro… đây là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài của toàn xã hội vì cuộc sống của chính con người; tiến đến bảo vệ môi trường sống một cách ổn định, cân bằng và bền vững (Astley, 1992). Bảo tồn chuyển chỗ hay bảo tồn ngoại vi (Exsitu Conservation) Bảo tồn chuyển chỗ là bảo tồn loài hoang dã ngoài môi trường sống tự nhiên thường xuyên hoặc theo mùa của chúng; bảo tồn loài cây trồng, vật nuôi đặc hữu, có giá trị ngoài môi trường sống, nơi hình thành và phát triển các đặc điểm đặc trưng của chúng; lưu giữ, bảo quản nguồn gen và mẫu vật di truyền trong các cơ sở khoa học và công nghệ hoặc cơ sở lưu giữ, bảo quản nguồn gen và mẫu vật di truyền (Luật đa dạng sinh học) Bảo tồn Exsitu nghĩa là bảo quản hoặc duy trì quần thể ở nơi khác với nơi mà chúng sinh ra, tiến hoá và thích nghi. Đây là phương pháp bảo tồn mang tính cổ điển, được hình thành từ đầu thế kỷ này và được triển khai rộng rãi từ sau thập kỷ 60. Phương pháp này cho phép bảo tồn số lượng giống lớn và an toàn. Tuy nhiên, sự đa dạng di truyền luôn luôn bị đe dọa trong khi bảo tồn Exsitu. Đó là do bảo tồn giống dưới dạng “ngủ” trong các kho lạnh không duy trì được quá trình tiến hoá trong môi trường tự nhiên (Hiroko Morishima, 1995). Bảo tồn Exsitu bao gồm bảo quản kho lạnh, bảo quản In-vitro và bảo quản trong điều kiện trồng trọt nhưng không phải tại nơi tồn tại hoặc gieo trồng phổ biến của loài. Bảo quản In-vitro là bảo quản trong ống nghiệm, có thể thực hiện bằng phương pháp như nuôi cấy mô tế bào, bảo quản ADN, bảo quản phôi trong nitơ lỏng (Nguyễn Hoàng Nghĩa, 1999). Bảo tồn tại chỗ hay bảo tồn nội vi (Insitu Conservation) Bảo tồn tại chỗ là bảo tồn loài hoang dã trong môi trường sống tự nhiên của chúng; bảo tồn loài cây trồng, vật nuôi đăc hữu, có giá trị trong môi trường sống, nơi hình thành và phát triển các đặc điểm đặc trưng của chúng (Luật đa dạng sinh học) Đây là phương pháp bổ trợ cho những khiếm khuyết của phương pháp Exsitu (Vaughan, 1992). Bảo tồn Insitu được xem như là một quá trình bảo tồn động, quần thể được bảo tồn Insitu còn được xem như là phòng thí nghiệm sống, nó cung cấp cho chúng ta các kiến thức về tiến hoá, cấu trúc quần thể. Bảo tồn in-situ tài nguyên di truyền thực vật khắc phục được những nhược điểm của bảo tồn ex-situ đồng thời là cơ sở vững chắc cho việc bảo vệ tổng thể tài nguyên đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường sinh thái (IPGRI, 1998). Một biến thức của phương pháp bảo tồn Insitu là bảo quản nông trại. Các loài cây cần bảo quản được đưa vào cơ cấu cây trồng của nông hộ, vừa bảo quản được tài nguyên di truyền, vừa có thể đảm bảo thu nhập bình thường của nông hộ. Có những giống cây trồng đã được họ vừa sử dụng vừa lưu giữ trên đồng ruộng từ thế hệ này sang thế hệ khác với cả những kiến thức hiểu biết về đặc tính và kỹ thuật gieo trồng chúng. Quá trình tiến hoá của vật liệu trong bảo tồn trên đồng ruộng của nông dân sẽ được tiếp tục cùng với những thay đổi của điều kiện ngoại cảnh; vật liệu được gieo trồng tại nơi khu trú với những kỹ thuật truyền thống, chúng sẽ thích nghi tốt hơn với những sự thay đổi về môi trường (Devra và cs., 1997).Xem tài liệu tác giả tham khảo tại đây |
|
TS. Trần Danh Sửu |